Cao Bằng: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2006-2010)
Lượt xem: 365

Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng, tăng cường quốc phòng - an ninh, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao.

Từ ngày 19 đến ngày 21/12/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2006-2010 được tổ chức tại thị xã Cao Bằng. Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát giai đoạn 2006-2010, đó là: “Tạo ra một bước phát triển mới về kinh tế - xã hội, cao hơn nhịp độ phát triển của những năm trước đây, đưa tỉnh Cao Bằng từng bước thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo, chậm phát triển; cải thiện rõ rệt hạ tầng kinh tế - xã hội, ổn định dân cư, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia. Phấn đấu đến năm 2010, Cao Bằng trở thành tỉnh khá trong khu vực”.

Đại hội đã quyết định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Thị Nương được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ.

Từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhiệm kỳ 2006-2011 của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Sau Đại hội, các cấp uỷ đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh công tác khuyến nông - khuyến lâm, đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, mở rộng diện tích trồng các loại cây lương thực, cây công nghiệp. Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, kiên cố hóa kênh mương, hồ chứa nhằm bảo đảm cung cấp nước lúa vụ xuân, vụ mùa. Tổng sản lượng lương thực hằng năm đều tăng, năm 2010, tổng sản lượng đạt 241.375 tấn, tăng 5,6% so với năm 2009, bảo đảm phục vụ nhu cầu lương thực tại địa phương.

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tỉnh đã xây dựng và thực hiện 41 dự án cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân vùng nông thôn, nâng tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước sạch tăng từ 62,1% năm 2005 lên 83,2% năm 2010.

Trong chăn nuôi, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm; tổng đàn trâu, lợn, gia cầm hằng năm đều tăng. Đến năm 2010, tổng đàn trâu có 109.760 con, tăng 2.267 con; tổng đàn lợn có 348.668 con, tăng 79.079 con; tổng đàn gia cầm có 2.167.775 con, tăng 10.775 con so với năm 2006...

Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển rừng, do đó, diện tích rừng tăng mạnh. Giai đoạn 2006-2010, toàn tỉnh trồng rừng tập trung được 3.489 ha. Năm 2010, tỷ lệ che phủ rừng đạt 52%. Công tác phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ rừng đạt kết quả tích cực; kinh tế lâm nghiệp chiếm tỷ trọng 18,3% trong giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản.

Trong lĩnh vực công nghiệp, tỉnh tập trung đầu tư khai thác, chế biến khoáng sản, xây dựng nhà máy thuỷ điện; hoàn thành đưa vào sản xuất Nhà máy thuỷ điện Bản Hoàng (huyện Hà Quảng); Nhà máy thuỷ điện Bản Rạ (huyện Trùng Khánh). Sản xuất công nghiệp phát triển theo hướng chuyển từ khai thác, tiêu thụ nguyên liệu thô sang chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm. Hình thành một hệ thống nhà máy chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất ván dăm, sản xuất phân vi sinh, chế biến trúc tre..., góp phần tạo việc làm cho người dân địa phương.

Về công tác xây dựng cơ bản, các cấp, các ngành tích cực khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tổng vốn đầu tư đạt 14.000 tỷ đồng, gấp 3,5 lần giai đoạn 2001-2005.

Hệ thống giao thông được đầu tư tương đối toàn diện, các tuyến đường thường xuyên được kiểm tra, duy tu sửa chữa, bảo đảm giao thông thông suốt; hoàn thành đưa vào khai thác các tuyến quốc lộ quan trọng với chiều dài trên 350 km; 7 tuyến đường tỉnh với chiều dài trên 185 km và triển khai các dự án đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 34, đường tỉnh 206. 100% đường đến trung tâm xã được xây dựng đạt tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn.

Đáp ứng nhu cầu thông tin và dịch vụ viễn thông ngày càng cao của nhân dân, bưu chính - viễn thông được tỉnh quan tâm đầu tư phát triển. 100% trung tâm huyện, thị và một số vùng trọng điểm đã được phủ sóng điện thoại di động và có đường truyền dẫn cáp quang. Toàn tỉnh xây dựng được 564 trạm BTS; 192 xã có điểm phục vụ bưu chính, 31 bưu cục, 165 xã có điểm bưu điện văn hóa; tỷ lệ dùng máy điện thoại đạt mật độ 85 máy/100 dân.

Công tác bảo vệ môi trường có tiến bộ đáng kể, đặc biệt là môi trường khai thác khoáng sản. Những tồn tại về ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản trái phép dần được khắc phục.

Công tác thu - chi ngân sách địa phương bảo đảm đúng quy định, đúng chế độ, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Năm 2005, thu ngân sách đạt 220,9 tỷ đồng, đến năm 2010, thu ngân sách đạt 500 tỷ đồng.

Hoạt động ngân hàng có nhiều đổi mới, huy động được vốn nhàn rỗi trong dân cư; triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất vốn vay cho các tổ chức kinh tế và cá nhân đạt hiệu quả cao, góp phần đưa kinh tế của tỉnh vượt qua khó khăn.

Trong công tác giáo dục - đào tạo, hệ thống trường, lớp tiếp tục được củng cố, phát triển, chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên. Toàn tỉnh thành lập mới được 81 trường học; 100% xã, phường, thị trấn có trường tiểu học, lớp hoặc trường mầm non, trung tâm học tập cộng đồng. Tháng 12/2008, Cao Bằng được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Về công tác y tế, đội ngũ cán bộ y tế tăng cả về số lượng và chất lượng, đạt tỷ lệ 7 bác sĩ/1 vạn dân, 60% số xã có bác sĩ. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được thực hiện có hiệu quả. Năm 2010, toàn tỉnh có 199/199 xã, phường, thị trấn có trạm y tế, trong đó có 47 trạm y tế xã, phường đạt chuẩ n quốc gia về y tế xã. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, giữ mức ổn định quy mô dân số, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, tỷ suất sinh từ 18,62%o năm 2005, giảm xuống 17,6%o năm 2010.

Hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch có bước phát triển mới. Ngành văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh tổ chức nhiều hoạt động thiết thực chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” thường xuyên được đẩy mạnh. Các thiết chế văn hóa tiếp tục được đầu tư xây dựng, tạo điều kiện cho nhân dân sinh hoạt văn hóa, hoạt động thể dục - thể thao.

Công tác quản lý các lễ hội trên địa bàn tỉnh đã dần đi vào nền nếp, đã phục dựng một số lễ hội truyền thống của các dân tộc. Các hoạt động phát triển du lịch được đẩy mạnh, nhất là các hoạt động quảng bá tiềm năng, phục vụ du lịch, sản phẩm du lịch địa phương. Năm 2010, lượng khách du lịch đến Cao Bằng đạt gần 300.000 lượt người, doanh thu đạt trên 50 tỷ đồng.

Hoạt động của các cơ quan báo chí đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin của nhân dân, góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí. Báo Cao Bằng tăng kỳ xuất bản lên 3 kỳ/tuần với lượng phát hành trên 9.000 bản/số. Đài Phát thanh - Truyền hình Cao Bằng duy trì phát thanh bằng 4 thứ tiếng: Tày - Nùng, Mông, Dao và tiếng Việt. Đến năm 2010, có 90% số hộ dân được xem truyền hình, 95% số hộ dân được nghe đài phát thanh.

Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tích cực. Đến hết năm 2010, toàn tỉnh giảm được 22.807 hộ nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 23,96%.

Trong 5 nă m 2006-2010, tỉnh đã giải quyết việc làm cho 46.000 lao động, trong đó xuấ t khẩ u lao động ra nước ngoài được 5.100 người; đào tạo nghề trình độ trung cấ p được 3.400 người, trình độ sơ cấp được 18.806 người. Các chế độ, chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công được thực hiện tốt. Các hoạt động đền ơ n đáp nghĩa, uố ng nước nhớ nguồn được đẩy mạ nh và trở thành phong trào sâu rộ ng trong các tầng lớp nhân dân; công tác bả o trợ xã hội được duy trì thường xuyên.

Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường; các điểm, nhóm đồng bào theo đạo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đẩy mạnh sản xuất, đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.

Về công tác quốc phòng - an ninh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được xây dựng, củng cố. Các công trình quốc phòng tiếp tục được đầu tư mở rộng, nâng cấp, tạo thế liên hoàn trong khu vực phòng thủ. Tập trung các giải pháp đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

Sau hơn 5 năm thực hiện Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 31/12/2008, Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên đất liền.

Trong công tác nội chính, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phối hợp chặt chẽ trong quá trình tiến hành tố tụng; công tác kiểm sát, xét xử được tiến hành chặt chẽ, bảo đảm trình tự, đúng luật định, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Trong công tác chính trị, tư tưởng, tỉnh chú trọng triển khai học tập, tuyên truyền cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó tạo sự chuyển biến tích cực trong rèn luyện đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh.

Công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh được gắn với xây dựng, củng cố chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và tổ chức các phong trào thi đua. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng cả ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người, vùng có đạo, chất lượng đảng viên được nâng lên rõ rệt. Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng hơn. Đảng bộ tỉnh đã sắp xếp, kiện toàn 288 tổ chức cơ sở đảng, thành lập mới 49 tổ chức cơ sở đảng; kết nạp được 10.120 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ tỉnh lên 36.705 đồng chí; tăng thêm 606 xóm có chi bộ, 100% xóm có đảng viên.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường và có nhiều đổi mới, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức đảng và đảng viên, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng, hạn chế sai phạm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Công tác dân vận được đổi mới, hướng mạnh về cơ sở góp phần tích cực đưa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào cuộc sống; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và mở rộng.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã phối hợp thực hiện tốt việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống nhân dân, giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng đời sống văn hóa và giữ gìn an ninh ở các khu dân cư.

Trong 5 năm 2006-2010, Cao Bằng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế phát triển với nhịp độ tăng trưởng trung bình 11,5%/năm; cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp (công nghiệp - xây dựng chiếm 20%; thương mại - dịch vụ chiếm 47,7%; nông - lâm nghiệp chiếm 32,3%). Thu hút đầu tư đạt kết quả. Hệ thống đường giao thông nông thôn, kênh, mương thuỷ lợi, trường học được mở rộng, phát triển đến vùng sâu, vùng xa; kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Các lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, xã hội tiếp tục có bước chuyển biến tiến bộ. Công tác quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố và giữ vững, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Theo Sách Lịch sử và Địa lý tỉnh Cao Bằng

 

Tin khác
1 2 3 





Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1