Nam Kỳ khởi nghĩa - biểu tượng khí phách quật cường của dân tộc
27/11/2015
Lượt xem: 1019
Mặc dù không thành công do điều kiện chưa chín muồi, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn và binh biến Đô Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Ðông Dương. Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Cuộc khởi nghĩa đã có tiếng vang lớn, chẳng những trong nước mà còn làm nức lòng cả những chiến sĩ cách mạng ở Pháp.

Ảnh minh họa.
Đường tới cuộc khởi nghĩa
Tháng 6/1940, nước Pháp bị quân đội Đức Quốc xã xâm lược và chiếm đóng. Nhân cơ hội này, tháng 9/1940, đế quốc Nhật Bản xâm lược bán đảo Đông Dương từ tay Pháp. Từ đây, Việt Nam bị hai thế lực cùng thống trị là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Sẵn tinh thần chống Pháp - Nhật và noi gương cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, người dân nhiều tỉnh miền Nam Việt Nam đã nổi dậy đấu tranh chống Pháp - Nhật.
Từ tháng 7 - 10/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp nhiều lần bàn về khởi nghĩa. Ðến giữa tháng 11/1940, trước tình hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuối cùng kế hoạch khởi nghĩa dự định vào đêm 22/11/1940 và ngay sau đó Xứ ủy cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Đồng thời, Xứ ủy Nam kỳ tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được chọn làm trọng điểm, là nơi phát lệnh khởi nghĩa cho các địa phương ở Nam kỳ. Một khí thế rầm rộ diễn ra tại thành phố và khắp các tỉnh, chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, quân sự, binh vận, hậu cần... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, dấy lên khí thế cách mạng sục sôi trong quần chúng đồng lòng, chung sức, cương quyết sống chết đánh đổ đế quốc và chống phát xít xâm lược, tiến lên giải phóng Tổ quốc.
Hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ 7 họp tại Ðình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) từ ngày 6 - 9/11/1940 đã quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa vì điều kiện chủ quan và khách quan đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi chưa chín muồi. Ðồng chí Phan Ðăng Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới các địa phương, một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị địch bắt, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.
Nam Kỳ khởi nghĩa
Đêm 22, rạng sáng 23/11/1940, dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ Nam kỳ, cả Nam Kỳ rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, ở Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, trong đó có 56/75 quận, 50% số làng, đặc biệt quyết liệt ở Hóc Môn (Bà Điểm, Gia Định), Cai Lậy (Mỹ Tho), Vũng Liêm (Vĩnh Long)…; kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23/11 đến ngày 31/12/1940. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông… của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng. Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao trong các cuộc biểu tình, tiến công đồn bốt ở Mỹ Tho (vùng Long Hưng, Long Ðịnh), Gia Ðịnh (vùng Hóc Môn), Vĩnh Long (vùng Bà Càng), Bạc Liêu (vùng Cà Mau), Chợ Lớn, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Long Xuyên, Thủ Dầu Một... Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ búa liềm được kéo lên tung bay trên nóc các trụ sở chính quyền thực dân được quân ta tiến chiếm, trở thành trụ sở Ban khởi nghĩa, cổ vũ khí thế tiến công của quân khởi nghĩa.
Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (năm 1858) cho đến lúc đó. Thực dân Pháp khủng bố khốc liệt những người khởi nghĩa. Hàng nghìn người bị xử tử, bị đày ra Côn Ðảo và các trại tập trung Bà Rá, Tà Lài... Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu... đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù.
Tháng 12/1940, Xứ ủy Nam kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa” với Nam Kỳ, từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp.
Mãi mãi âm vang khí phách Nam Kỳ khởi nghĩa
Sau cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Pháp đã gửi đến Đảng Cộng sản Đông Dương một bức thư, trong đó có đoạn: "... Chúng tôi cúi đầu trước vong linh những người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã hy sinh hồi tháng 11 dưới súng liên thanh của Decoux, Beaudouin, Pétain... Chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước những người anh hùng đó, đặc biệt chúng tôi nghiêng mình trước những anh chị em ruột thịt anh hùng là đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương".
Ngày 14/4/1948, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Ðội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 “đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với kẻ địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”. Ðó là sự khắc ghi của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.
Hiện thực hào hùng của khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940 đã để lại những bài học quý giá. Ðó là bài học về xây dựng thực lực cách mạng gắn với nắm bắt thời cơ; bài học về khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự hiệp lực, đồng tâm của quần chúng; bài học về phối hợp địa phương với cả nước, về nghệ thuật giành và giữ chính quyền nhân dân... đặc biệt, nổi lên bài học về xây dựng Ðảng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đào tạo và rèn luyện một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân. Tinh thần quyết tử cho dân tộc quyết sinh của các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã góp phần hun đúc lòng dũng cảm, ý chí kiên cường cho Đảng ta, cho cả dân tộc ta để giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc cuộc trường kỳ kháng chiến 30 năm, để đánh bại hết giặc Pháp đến giặc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.
Ðặc biệt, từ trong tiến trình chuẩn bị và diễn ra khởi nghĩa, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được viết trên các băng rôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng ở Long Hưng, ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của nhân dân Nam Kỳ, sau này trở thành lá cờ của Mặt trận Việt Minh, Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Theo baocaobang.vn
-
-
-
-
-
Lễ mừng thọ, theo tiếng Tày, Nùng là Pủ Liềng hoặc Pủ Lường, nghĩa là bổ thêm lương vào bịch gạo mệnh. Được dành cho người cao tuổi, tổ chức nhiều vào dịp xuân trong năm.
-
Dân tộc Lô Lô có các tên gọi khác là Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Ô Man, Lu Lộc Màn.. Có hai nhóm: Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen. Cư trú chủ yếu tại huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng). Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến. Người Lô Lô luôn tự hào rằng tổ tiên họ đã đến khai phá miền đất biên giới của Tổ quốc. Đó là Đồng Văn (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng).
-
-
Tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, lấy tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II. Đây là Chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tỉnh Cao Bằng được chọn làm chiến trường chính của Chiến dịch.
-
Những năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau.
-
Ngày 7/5/1954 đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam và thế giới với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
-
-
-
-
-
Lễ mừng thọ, theo tiếng Tày, Nùng là Pủ Liềng hoặc Pủ Lường, nghĩa là bổ thêm lương vào bịch gạo mệnh. Được dành cho người cao tuổi, tổ chức nhiều vào dịp xuân trong năm.
-
Dân tộc Lô Lô có các tên gọi khác là Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Ô Man, Lu Lộc Màn.. Có hai nhóm: Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen. Cư trú chủ yếu tại huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng). Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến. Người Lô Lô luôn tự hào rằng tổ tiên họ đã đến khai phá miền đất biên giới của Tổ quốc. Đó là Đồng Văn (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng).
-
-
Tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, lấy tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II. Đây là Chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tỉnh Cao Bằng được chọn làm chiến trường chính của Chiến dịch.
-
Những năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau.
-
Ngày 7/5/1954 đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam và thế giới với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
27/11/2015
Nam Kỳ khởi nghĩa - biểu tượng khí phách quật cường của dân tộc
Mặc dù không thành công do điều kiện chưa chín muồi, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn và binh biến Đô Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Ðông Dương. Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Cuộc khởi nghĩa đã có tiếng vang lớn, chẳng những trong nước mà còn làm nức lòng cả những chiến sĩ cách mạng ở Pháp.

Ảnh minh họa.
Đường tới cuộc khởi nghĩa
Tháng 6/1940, nước Pháp bị quân đội Đức Quốc xã xâm lược và chiếm đóng. Nhân cơ hội này, tháng 9/1940, đế quốc Nhật Bản xâm lược bán đảo Đông Dương từ tay Pháp. Từ đây, Việt Nam bị hai thế lực cùng thống trị là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Sẵn tinh thần chống Pháp - Nhật và noi gương cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, người dân nhiều tỉnh miền Nam Việt Nam đã nổi dậy đấu tranh chống Pháp - Nhật.
Từ tháng 7 - 10/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp nhiều lần bàn về khởi nghĩa. Ðến giữa tháng 11/1940, trước tình hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuối cùng kế hoạch khởi nghĩa dự định vào đêm 22/11/1940 và ngay sau đó Xứ ủy cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Đồng thời, Xứ ủy Nam kỳ tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được chọn làm trọng điểm, là nơi phát lệnh khởi nghĩa cho các địa phương ở Nam kỳ. Một khí thế rầm rộ diễn ra tại thành phố và khắp các tỉnh, chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, quân sự, binh vận, hậu cần... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, dấy lên khí thế cách mạng sục sôi trong quần chúng đồng lòng, chung sức, cương quyết sống chết đánh đổ đế quốc và chống phát xít xâm lược, tiến lên giải phóng Tổ quốc.
Hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ 7 họp tại Ðình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) từ ngày 6 - 9/11/1940 đã quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa vì điều kiện chủ quan và khách quan đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi chưa chín muồi. Ðồng chí Phan Ðăng Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới các địa phương, một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị địch bắt, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.
Nam Kỳ khởi nghĩa
Đêm 22, rạng sáng 23/11/1940, dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ Nam kỳ, cả Nam Kỳ rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, ở Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, trong đó có 56/75 quận, 50% số làng, đặc biệt quyết liệt ở Hóc Môn (Bà Điểm, Gia Định), Cai Lậy (Mỹ Tho), Vũng Liêm (Vĩnh Long)…; kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23/11 đến ngày 31/12/1940. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông… của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng. Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao trong các cuộc biểu tình, tiến công đồn bốt ở Mỹ Tho (vùng Long Hưng, Long Ðịnh), Gia Ðịnh (vùng Hóc Môn), Vĩnh Long (vùng Bà Càng), Bạc Liêu (vùng Cà Mau), Chợ Lớn, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Long Xuyên, Thủ Dầu Một... Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ búa liềm được kéo lên tung bay trên nóc các trụ sở chính quyền thực dân được quân ta tiến chiếm, trở thành trụ sở Ban khởi nghĩa, cổ vũ khí thế tiến công của quân khởi nghĩa.
Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (năm 1858) cho đến lúc đó. Thực dân Pháp khủng bố khốc liệt những người khởi nghĩa. Hàng nghìn người bị xử tử, bị đày ra Côn Ðảo và các trại tập trung Bà Rá, Tà Lài... Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu... đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù.
Tháng 12/1940, Xứ ủy Nam kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa” với Nam Kỳ, từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp.
Mãi mãi âm vang khí phách Nam Kỳ khởi nghĩa
Sau cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Pháp đã gửi đến Đảng Cộng sản Đông Dương một bức thư, trong đó có đoạn: "... Chúng tôi cúi đầu trước vong linh những người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã hy sinh hồi tháng 11 dưới súng liên thanh của Decoux, Beaudouin, Pétain... Chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước những người anh hùng đó, đặc biệt chúng tôi nghiêng mình trước những anh chị em ruột thịt anh hùng là đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương".
Ngày 14/4/1948, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Ðội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 “đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với kẻ địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”. Ðó là sự khắc ghi của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.
Hiện thực hào hùng của khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940 đã để lại những bài học quý giá. Ðó là bài học về xây dựng thực lực cách mạng gắn với nắm bắt thời cơ; bài học về khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự hiệp lực, đồng tâm của quần chúng; bài học về phối hợp địa phương với cả nước, về nghệ thuật giành và giữ chính quyền nhân dân... đặc biệt, nổi lên bài học về xây dựng Ðảng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đào tạo và rèn luyện một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân. Tinh thần quyết tử cho dân tộc quyết sinh của các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã góp phần hun đúc lòng dũng cảm, ý chí kiên cường cho Đảng ta, cho cả dân tộc ta để giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc cuộc trường kỳ kháng chiến 30 năm, để đánh bại hết giặc Pháp đến giặc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.
Ðặc biệt, từ trong tiến trình chuẩn bị và diễn ra khởi nghĩa, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được viết trên các băng rôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng ở Long Hưng, ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của nhân dân Nam Kỳ, sau này trở thành lá cờ của Mặt trận Việt Minh, Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Theo baocaobang.vn
|