Một số lễ hội truyền thống ở Cao Bằng
Lượt xem: 5205

Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cũng là mùa của các lễ hội. Vào khoảng từ mùng 4 đến 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, giữa tiết trời ấm áp, nhân dân các dân tộc Cao Bằng lại rộn rã, nô nức vui xuân, trẩy hội để cầu lộc, cầu mùa, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa.

Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có núi rừng, sông suối trải dài hùng vĩ, bao la. Vẻ đẹp thiên nhiên với nhiều danh lam thắng cảnh cùng những di tích lịch sử nổi tiếng chính là điểm đến du xuân, cầu lộc, cầu mùa của nhân dân địa phương và du khách các tỉnh. Ở Cao Bằng, hàng năm có rất nhiều lễ hội nhưng có thể kể đến những lễ hội lớn, thu hút đông đảo người dân trong vùng cũng như khách thập phương như: Lễ hội Lồng tồng, lễ hội đền Kỳ Sầm, đền Vua Lê, lễ hội chùa Đà Quận, lễ hội Nàng Hai, lễ hội pháo hoa...

Lễ hội Lồng tồng

Lồng Tồng là lễ hội quan trọng nhất trong năm của đồng bào người Tày, Nùng, được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Lồng Tồng theo tiếng Tày – Nùng hay Lồng Tộng theo tiếng Dao có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ phần nghi lễ khi hội, các nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội. Lễ hội Lồng Tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.

Cày khai hội Lồng Tồng

Hội được tổ chức trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng. Vẫn theo lệ từ ngàn xưa, Hội chia thành hai phần: Phần lễ có tạ thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hoà, gia súc, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm... Chủ trì hội là ông Thại đinh (người coi đình) hay người coi việc thờ cúng Thần Nông của bản. Tất cả gia đình tham dự hội đều mang theo cỗ để làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng: đó là những mâm cỗ thịnh soạn, trình bày đẹp. Mâm lễ thường có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu slec, bánh khảo, bánh dày, chè lam...Ở một số hội qui mô lớn, người chủ trì còn cho tổ chức lễ hiến tam sinh (trâu, heo, gà hay heo, dê, gà). Trên thửa ruộng xuống đồng đàn tế Thần Nông và các thần khác được trần thiết. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình thì rước cỗ, bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần rồi tuyên bố phá cỗ . Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Có nơi các vị bô lão được mời đi thưởng cỗ, có thanh niên gái trai đi theo múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành. Ăn cỗ xong, mọi người tiếp tục ca hát và tham gia các trò chơi dân gian như:  ném còn, kéo co, đẩy gậy, đánh quay, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng …

Hội Đền Vua Lê

Đền Vua Lê thuộc làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An. Đền được xây dựng trên một gò đất cao phía Bắc thành Na Lữ do Nùng Tồn Phúc dựng lên vào thời nhà Lý (thế kỷ XI), được gọi là gò Long (tức gò Rồng). Đền thờ vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng đế), dưới triều đại phong kiến, vừa là cung điện, vừa là trung tâm hoạt động kinh tế - văn hoá, quân sự của các vua quan. Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền Vua Lê là một địa điểm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với những hoạt động của Đảng ta trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Năm 1995, đền Vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, là nơi tổ chức lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng. Nhân dân đến thắp hương, vui hội với ý niệm cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt bội thu, nhà nhà khoẻ mạnh, cũng là dịp tỏ bày đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Tham dự lễ hội, khách thập phương còn được chơi các trò chơi dân gian và được thưởng thức các món ăn đặc sản của địa phương, như: bánh cuốn, phở vịt, thịt lợn quay...

Hội Chùa Đống Lân

Chùa Đống Lân nằm trên gò Đống Lân (tiếng Tày là Đoỏng Lân), ở phía Tây Bắc thành phố Cao Bằng. Nguồn gốc tên “Đống Lân” có nhiều giả thiết, gắn với những sự tích lịch sử qua nhiều thời kỳ như sự tích Thục Phán tổ chức cuộc thi “Chín chúa tranh vua” (có nhiều địa danh khác gắn với sự tích này như: Cánh đồng Tổng Chúp, cây đa Cao Bình, đôi guốc đá ở Bản Thảnh, thuyền úp ở Khau Lừa). Đống Lân là nơi chúa đi lấy trống đồng về đến đây mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng, các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi nên không ai thắng. Tổng Lằn là trống lăn, gọi chệch là Đống Lân. Có giả thiết Đống Lân là chùa nằm trên gò con Lân.

Bí thư Tỉnh uỷ Hà Ngọc Chiến; Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Anh dự lễ tế tại chùa Đống Lân.

Dưới thời nhà Lý (cuối thế kỷ XI), chùa Đống Lân được xây dựng để thờ Phật. Từ năm Tân Hợi niên hiệu Càn Thống 19 nhà Mạc, hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Sau chùa là Ly cung của nhà Mạc. Chùa là nơi để hoàng hậu, công chúa tụng kinh niệm Phật.

Trước khi chùa được xây dựng, tại gò Đống Lân có đền thờ Trần Quý, Trần Kiên. Theo “Cao Bằng thực lục” có ghi chép nhiều chi tiết về nguồn gốc và tài năng đặc biệt của anh em Trần Quý, Trần Kiên. Cha của hai ông là Trần Triệu vì lấy được vợ tiên nên hai con trai được truyền cho nhiều phép lạ. Khi đến tuổi trưởng thành, mẹ tiên phải quay về trời, cha cũng bỏ vào núi cầu học đạo tiên, hai anh em Trần Quý, Trần Kiên ghi nhớ lời dặn dò của cha mẹ, mang kiếm đi khắp trong vùng tìm diệt yêu quái, trừ hại cho dân. Nhớ ơn công đức hai chàng trai, nhân dân lập miếu xuân thu phụng tự. Hai vị ấy, trải qua các triều vua đều có sắc phong. Đến triều Lê, Trần Kiên được phong làm Cai Cộng Đại Vương, hạ đẳng thần; Trần Quý là Đống Lân Đại Vương, Trung đẳng thần.

Trải qua biến cố của lịch sử, chùa Đống Lân nhiều lần bị tàn phá, hư hại nặng, sau đó được tu sửa. Năm Thiệu Trị (1841-1847) nhà Nguyễn, ngôi chùa được dựng lại toàn bộ. Nơi thờ Trần Quý - Trần Kiên được thờ riêng ở một ngôi miếu nhỏ sát hành lang phía bên phải chùa, còn thờ phật ở gian chính điện. Thời kháng chiến chống Pháp, năm 1950, chùa một lần nữa bị tàn phá.

Ngoài ra, theo nguồn tư liệu cung cấp của một số cụ cao tuổi ở xã Hưng Đạo, trước đây trong chùa còn có bát hương thờ Thạch Sanh. Đây là một nhân vật trong truyền thuyết của người dân tộc Tày. Thạch Sanh chém chết chằn tinh, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Ngày 15/1/1997, chùa được UBND tỉnh cấp Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Năm 2004, chùa được nhà nước cấp vốn đầu tư tôn tạo ngôi tam bảo, bổ sung nhiều tượng Phật, cải tạo khuôn viên chùa. Tuy nhiên, kiến trúc ban đầu của chùa không còn được giữ lại nguyên vẹn. Các hiện vật như: chuông, tượng phật, câu đối…, từ xưa không còn giữ được. Chỉ có những hiện vật mới được các phật tử cung tiến sau này.

Năm 2007, được sự nhất trí của UBND tỉnh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cắt cử sư về trụ trì tại chùa, phục vụ tự do tín ngưỡng của nhân dân. Chùa là nơi để các tín đồ Phật giáo nhiều nơi trong tỉnh đến lễ Phật vào ngày mùng Một, ngày Rằm hằng tháng.

Hội chùa vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động: tụng kinh niệm Phật, xóc quẻ cầu phúc, cầu tài, thắp hương hái lộc, tổ chức các trò chơi dân gian…, thu hút khách thập phương đến trẩy hội đông vui.

Hội chùa Đà Quận

Chùa được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII, thời vua Mạc Kính Cung để thờ Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn, một danh tướng của nhà Mạc. Đối diện với chùa là Đền thờ Quan triều vũ Dương Tự Minh, thời nhà Lý, người có công dẹp trừ giặc, giữ gìn bình an vùng biên viễn Cao Bằng.

Mùng 9 tháng Giêng âm lịch hằng năm, du khách khắp nơi lại trảy Hội Chùa Đà Quận. Trong đêm mùng 8 đã diễn ra phần lễ theo những nghi thức truyền thống của địa phương. Sau hồi trống, dâng hương, đón lễ vào chùa, các cụ cao niên tiến hành nghi lễ dâng rượu, đọc sớ lễ cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mong một năm mới toàn thể nhân dân có nhiều sức khỏe, gặp nhiều may mắn.

Các cụ cao niên làm nghi lễ dâng rượu tại chùa Đà Quận

Phần Hội tại Chùa Đà Quận với nhiều trò chơi dân gian, thể thao hấp dẫn như: cờ tướng, bịt mắt đập bóng, tung còn, đá bóng…

Lễ hội đền Kỳ Sầm

Đền Kỳ Sầm thờ Khâu Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao ở xã Tượng Cần, huyện Thạch Lâm nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng. Đền được xây dựng để thờ danh nhân lịch sử Nùng Trí Cao, người dân tộc Tày, một nhân vật có liên quan đến sự nghiệp giữ nước ở thời Lý (vua Lý Thái Tông thế kỷ XI). Nùng Trí Cao là một thủ lĩnh địa phương cầm đầu cuộc nổi dậy ở vùng biên cương, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế. Ông đã có một thời oanh liệt, đánh tan giặc Tống xâm lược, tiến quân sang chiếm được 8 châu đất Quảng Đông, Quảng Châu, lưu danh trong lịch sử, là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Ông được triều Lý sắc phong “Kỳ Sầm đại vương”, triều Nguyễn sắc phong “Kỳ Sầm biên tái, bảo quốc an dân, phúc thần”.

 

Đông đảo du khách trẩy hội Đền Kỳ Sầm.

Hàng năm lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng giêng Âm lịch, thu hút mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh đến trảy hội, vui xuân, với nhiều trò chơi như: tung còn, đấu vật, đấu võ, đá bóng, múa sư tử, múa rồng, múa lân… Ở nhiều địa phương khác trong tỉnh, nhân dân cũng lập đền thờ ông. Tượng người anh hùng dân tộc Nùng Trí Cao, tay cầm gươm tuốt trần ngồi trên chiến mã như sẵn sàng chống lại sự nhòm ngó của người phương Bắc được người dân vùng biên cương hương khói quanh năm để tỏ lòng ngưỡng mộ.

Lễ hội Nàng Hai

Là lễ hội của dân tộc Tày, được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng ba. Theo tín ngưỡng dân gian của người Tày thì trên cung trăng có mẹ trăng và các nàng tiên. Mẹ cùng các nàng chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân. Vì thế, hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng là đón mẹ trăng cùng các nàng tiên xuống trần gian để giúp con người trong công việc làm ăn sinh sống.

Lễ tiễn mẹ Trăng về với trời

Để tổ chức Hội, trong bản phải chọn một phụ nữ trung tuổi, có gia đình hạnh phúc, cuộc sống vẹn toàn và đặc biệt là phải hát hay, hát giỏi để làm mẹ trăng. Chọn 12 đến 18 cô gái trẻ đóng vai các nàng tiên. Trong số những cô gái ấy, chọn 2 cô đẹp nhất làm hai chị em trăng. Để bắt đầu, người ta chọn 2 thiếu niên nam khoẻ mạnh dẫn lễ đi trước, mở đường cho cuộc hành trình của mẹ trăng và các nàng tiên lên trời. Lễ cúng đón mẹ trăng và các nàng xuống trần được tiến hành trong 12 đêm, mỗi đêm cúng mời một mẹ trăng, mỗi mẹ trăng phụ trách một công việc. Mẹ thì bảo quản giống lúa, mẹ thì coi giống bông, mẹ coi giống tăm, mẹ trông coi sâu bọ, mẹ lo chuyện tưới nước… Sau khi đã cầu hết các cửa, xin các mẹ đầy đủ các giống cây, giống con, điều kiện mưa thuận gió hoà thì dân bản tổ chức tiễn các mẹ trăng về trời. Họ hát các bài hát chia tay lên bổng xuống trầm, múa những điệu múa đưa của cải lên thuyền cho mẹ và các nàng trăng về trời. Đây là một lễ hội đặc biệt với những nghi thức và làn điệu “Lượn hai” hết sức độc đáo của dân tộc Tày.

Lễ hội pháo hoa

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội truyền thống độc đáo với màn tranh pháo hoa đầu xuân của các xã tại thị trấn Quảng Uyên để cầu mong cho một năm mới may mắn, phát tài, phát lộc. Hàng năm, cứ vào ngày 2/2 âm lịch, nhân dân và du khách thập phương lại nô nức về Quảng Uyên trảy hội.

 

Màn tranh đầu pháo tại Hội pháo hoa Quảng Uyên

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân huyện Quảng Uyên, gắn với các yếu tố về lịch sử, tâm linh của miếu Bách Linh. Miếu được xây từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, đến thời nhà Nguyễn được xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Trước cổng có tam quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối. Trên cổng khắc 3 chữ “Bách Linh miếu”, có đắp nổi con rồng uốn khúc, xây bằng gạch vồ (gạch thời Mạc), có bức trạm rồng ngậm ngọc, bên cạnh có chim phượng cùng long ly tụ hội.

Phần đặc sắc nhất trong phần lễ là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước (người dân địa phương gọi là bó Cốc Chủ - mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ do một cụ cao tuổi, có uy tín làm chủ lễ và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả cầu và 11 người múa rồng) làm lễ tại mỏ nước. Khi ra mỏ nước, rồng không được múa, không được đánh trống mà được bịt mắt bằng giấy bản, đến mỏ nước, rồng nằm phục ở đó. Người chủ lễ thắp hương vái thiên địa, cầu xin thần linh phù hộ cho người dân địa phương một năm làm ăn mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no, hạnh phúc và xin được mở mắt cho rồng. Cúng xong, chủ lễ cắt tiết con gà trống, lấy máu xoa vào hai mắt rồng rồi bỏ giấy ở mắt rồng ra, lúc này rồng đã được mở mắt, sau ba hồi trống nổi lên để đánh thức, rồng bắt đầu cử động từ đầu đến thân rồi đuôi. Sau đó, người ta đánh trống thúc giục và rồng từ từ bay lên, rồng bay quanh mỏ nước ba lần rồi đi vào miếu Bách Linh; trong miếu đã được đặt lễ và thắp hương, rồng vào miếu vái ba lần, sau đó đi trong miếu một vòng rồi ra ngoài.

Lễ vật dâng lên tế lễ gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm phẩm đỏ, 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra long trọng với 4 đoàn rước kiệu, mỗi kiệu có 4 người khiêng, mặc lễ phục. Đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội thắng cuộc trong trò chơi cướp đầu pháo. Theo sau đoàn rước kiệu là đoàn rước rồng, sau khi làm thủ tục thắp hương tại miếu, đoàn rước rồng xuất phát đến Đền thờ Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo, sau đó đi khắp phố tới từng nhà. Đi tới đâu rồng cũng được người dân tiếp đón rất nồng nhiệt, trang trọng.

Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ, như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi tiêu biểu của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng sắt trang điểm tua ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, sau khi đốt pháo, chờ cho đầu pháo rơi xuống, các đội bắt đầu tranh cướp, đội nào cầm được đầu pháo mang đến cho Ban Tổ chức là đội thắng cuộc. Gần đây, khi có lệnh cấm đốt pháo, Ban Tổ chức đã tiến hành trò chơi bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu pháo) ra cho các đội tranh cướp như thường lệ. Theo quan niệm của người dân địa phương thì ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài, phát lộc và đem lại vinh dự lớn cho xã mình. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần thưởng là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau, địa phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng sẽ đến lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng cuộc thi năm đó.

Theo thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã tồn tại trong tâm thức nhiều thế hệ người dân Quảng Uyên và trở thành nét đẹp tinh thần không thể thiếu mỗi dịp xuân về.

Các lễ hội ở Cao Bằng đều mang tính nhân văn sâu sắc, hướng thiện, cầu phúc, cầu lộc, cầu mùa, và mong muốn cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Bên cạnh đó, còn có các lễ hội tôn vinh những anh hùng chống giặc ngoại xâm, các lễ hội thực hiện các nghi lễ, tập tục của dân tộc… Đồng thời lễ hội cũng là nơi bảo tồn, giữ gìn những giá trị của văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Những câu hát Then, điệu hát Sli, Lượn, Phongslư, Dá Hai, Hà Lều… với những giai điệu ngọt ngào, da diết cùng những trò chơi dân gian thực sự hấp dẫn là những tiềm năng du lịch văn hoá rất lớn của vùng đất Cao Bằng.

Dương Liễu (tổng hợp)

Tin khác
1 2 3 4 5  ... 





Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1