Chuyển đổi số ở Cao Bằng: Nền tảng đột phá cho phát triển bền vững
Sau hơn 3 năm triển khai Nghị quyết 11-NQ/TU, ngày 07/3/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng Chính quyền điện tử, hướng tới Chính quyền số, tỉnh Cao Bằng đã đạt nhiều kết quả nổi bật, từng bước khẳng định vai trò của chuyển đổi số trong phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính và nâng cao đời sống người dân.
Quyết liệt từ chỉ đạo đến hành động, phát triển hạ tầng số
Ngay từ đầu giai đoạn 2021 - 2025, Sở Khoa học và Công nghệ (trước đây là Sở Thông tin và Truyền thông) đã tham mưu cho tỉnh ban hành nhiều văn bản, chương trình, kế hoạch quan trọng về chuyển đổi số. Trong đó, Đề án Chuyển đổi số tỉnh Cao Bằng đến năm 2025, định hướng 2030 được coi là kim chỉ nam, giúp các sở, ngành, địa phương có cơ sở pháp lý và lộ trình hành động cụ thể. Đặc biệt, năm 2025, tỉnh đã hoàn thiện dự thảo Kiến trúc Chính quyền số phiên bản 4.0, cập nhật theo Khung kiến trúc Chính phủ số Việt Nam, thể hiện quyết tâm bắt nhịp với xu thế quốc gia
Bí thư Tỉnh ủy Quản Minh Cường phát biểu chỉ đạo nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số những tháng cuối năm 2025
Tỉnh Cao Bằng xác định phát triển hạ tầng số là nền tảng phát triển Chính quyền số, Chuyển đổi số tại địa phương, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Vì vậy, đã thường xuyên đầu tư, nâng cấp, mở rộng hạ tầng số như: xây dựng và đưa vào khai thác Nền tảng điện toán đám mây làm nền tảng hạ tầng vận hành, lưu trữ quan trọng cho các hoạt động chuyển đổi số tại địa phương. Trong giai đoạn tới, nền tảng điện toán đám mây của tỉnh dự kiến sẽ mở rộng, nâng cấp nhằm đáp ứng cung cấp hạ tầng cho các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu (CSDL) các ngành, địa phương và kết nối, chia sẻ dữ liệu với Nền tảng điện toán đám mây Chính phủ, tạo cơ sở cho việc dịch chuyển các dịch vụ, hệ thống, dữ liệu trên toàn tỉnh bao gồm Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số lên nền tảng điện toán đám mây. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu (LGSP) của tỉnh được xây dựng và triển khai hoạt động ổn định, đã kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu Quốc gia (NDXP) đáp ứng sẵn sàng khai thác cơ sở dữ liệu CSDL quốc gia về dân cư và kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống của tỉnh với các hệ thống, CSDL của các bộ, ngành, địa phương. Mạng truyền số liệu chuyên dùng cấp II (mạng nội tỉnh) đã kết nối đến 100% cơ quan cấp tỉnh và UBND cấp xã, kết nối với mạng TSLCD cấp I (mạng trục quốc gia) và được giám sát bởi Hệ thống giám sát của Bộ Khoa học và Công nghệ. Hạ tầng bưu chính, viễn thông phát triển đến tất cả các xã trên địa bàn tỉnh, đến hầu hết các khu vực biên giới. 100% UBND cấp xã được kết nối Internet băng rộng cố định cáp quang và băng rộng di động 3G, 4G; Mạng băng rộng di động 5G đã được triển khai và cung cấp thương mại trên địa bàn tỉnh (với 32 trạm phát sóng tại trung tâm các xã, phường). Trên 80% các xã vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn có đài truyền thanh ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) - Viễn thông; toàn tỉnh hiện đã được đầu tư và đưa vào sử dụng 4 cụm thông tin điện tử phục vụ công tác tuyên truyền tại biên giới gồm: cửa khẩu Trà lĩnh, thác Bản Giốc, cửa khẩu Sóc Giang và cửa khẩu Tà Lùng; đã phát triển tổng số 1.217 vị trí trạm BTS, mạng lưới viễn thông, mạng băng rộng cáp quang phát triển đến 100% các xã và các khu vực biên giới...
Chính quyền điện tử, chính quyền số được nâng cấp, dịch vụ công trực tuyến tăng mạnh
Các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh được xây dựng và duy trì, nâng cấp, đáp ứng nhu cầu quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, phục vụ chính quyền điện tử, phát triển chính quyền số của tỉnh, nổi bật như: Hệ thống Cổng thông tin điện tử của tỉnh tiếp tục được duy trì, nâng cấp nhằm cung cấp thông tin, dịch vụ công trực tuyến trên môi trường mạng của cơ quan nhà nước đến người dân và doanh nghiệp đầy đủ, công khai, minh bạch theo quy định tại Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ; Hệ thống quản lý văn bản điều hành thông suốt từ cấp tỉnh đến cấp xã và kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia với: tỷ lệ trao đổi văn bản nội bộ trong các cơ quan dưới dạng điện tử đạt 100%; tỷ lệ trao đổi văn bản giữa các cơ quan trong tỉnh và cấp trung ương dưới dạng điện tử đạt trên 90% (trừ các văn bản mật theo quy định của nhà nước); Trung tâm dữ liệu trên nền tảng điện toán đám mây được thiết lập phục vụ phát triển Chính quyền số tỉnh Cao Bằng được triển khai theo hình thức thuê dịch vụ CNTT nhằm tối ưu hóa chi phí và nhân lực vận hành hệ thống.

Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình là một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số.
Không chỉ dừng lại ở cơ quan đơn vị chuyên môn, chuyển đổi số đã đi vào nhiều lĩnh vực đời sống như: nền tảng trạm y tế xã, nền tảng họp trực tuyến; nền tảng tư vấn khám chữa bệnh từ xa, … giúp người dân vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ y tế hiện đại. Hệ sinh thái giáo dục thông minh kết nối 537 trường học, góp phần đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng dạy học. Dự án số hóa di sản văn hóa, cổng du lịch thông minh, ứng dụng du lịch trên smartphone mở ra hướng quảng bá mới cho du lịch Cao Bằng.
Kinh tế số được đẩy mạnh và triển khai rộng khắp các lĩnh vực kinh tế với việc thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số, phát triển chính quyền số, xã hội số trên địa bàn tỉnh. Cao Bằng đã triển khai nhiều nền tảng hỗ trợ kinh tế số như: Nền tảng công dân số với hơn 11.500 lượt tải; Cổng du lịch thông minh với trên 5,6 triệu lượt truy cập; các hệ thống chợ trực tuyến, truy xuất nguồn gốc nông sản phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch ngân hàng đạt 80%; tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử đạt 99,26%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử đạt 98,2%. Hoạt động thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến.
Cùng với đó, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính đã được tích hợp lên Cổng dịch vụ công Quốc gia, cung cấp 1.785 dịch vụ công trực tuyến toàn trình và dịch vụ công trực tuyến một phần; tỷ lệ nộp hồ sơ trực tuyến đạt 61,46 %; tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đạt hơn 80,88% – những con số cho thấy sự thay đổi rõ rệt trong tiếp cận dịch vụ công của người dân.
Nguồn nhân lực và nhận thức chuyển đổi số được nâng cao
Trong 5 năm, tỉnh đã tổ chức hơn 200 lớp tập huấn với trên 7.100 lượt học viên về kỹ năng số, chuyển đổi số. Cuộc thi “Tìm hiểu về Chuyển đổi số năm 2024” thu hút hơn 13.000 người tham gia, khẳng định chuyển đổi số đã dần trở thành phong trào sâu rộng trong xã hội.
Tập huấn về kỹ năng số và khai thác các hệ thống thông tin phục vụ chính quyền 2 cấp tại xã Kim Đồng
Công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về CNTT, chuyển đổi số được được triển khai thường xuyên, trên mọi hình thức đến cấp xóm; lồng ghép trong công tác phổ biến, nâng cao nhận thức, giáo dục pháp luật được các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quan tâm thực hiện; luôn tăng cường đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến về CNTT, chuyển đổi số. Thông qua các Hội nghị giao ban báo chí định kỳ đã định hướng các cơ quan báo chí, truyền thông của tỉnh tuyên truyền sâu rộng các nội dung về xây dựng Chính quyền số, phát triển kinh tế số và xã hội số; tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cấp ủy đảng, chính quyền, doanh nghiệp và Nhân dân trên địa bàn về vị trí, vai trò của CNTT, chuyển đổi số trong phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng chính quyền số; tuyên truyền nâng cao trách nhiệm ứng dụng CNTT trong công tác, đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp...
Các chương trình tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng số trên nền tảng học trực tuyến mở đại trà (OneTouch, Mobiedu) theo chương trình của Bộ Khoa học và Công nghệ đã được quan tâm, triển khai cho cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đảm bảo hiệu quả, thiết thực, đạt các mục tiêu đề ra góp phần nâng cao kiến thức trong công tác Chuyển đổi số của người dân, cán bộ công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh.
Việc thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức của CBCCVC về vai trò của chuyển đổi số. Nhiều khóa học đã cung cấp các kỹ năng số, sử dụng internet, email, và các phần mềm ứng dụng chuyên ngành, giúp CBCCVC làm quen với môi trường làm việc điện tử; các chương trình bồi dưỡng đã trực tiếp hỗ trợ việc triển khai và ứng dụng các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh và Quốc gia như phần mềm quản lý văn bản, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính, hệ thống báo cáo... đặc biệt trong giai đoạn cấp bách (đến 30/6/2025) và giai đoạn đột phá (từ ngày 01/7/2025 đến ngày 31/12/2025) triển khai chuyển đổi số liên thông, đồng bộ, nhanh, hiệu quả đáp ứng sắp xếp tổ chức bộ máy Chính quyền theo mô hình 02 cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, đã góp phần vào quá trình xây dựng chính quyền điện tử và chính quyền số của Cao Bằng.
Các Tổ chuyển đổi số cộng đồng chủ động đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn đến người dân các kiến thức, kỹ năng ứng dụng CNTT, chuyển đổi số, từ đó góp phần nâng cao nhận thức cho người dân về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, chuyển đổi số góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Hướng tới giai đoạn 2026–2030
Trên nền tảng đã đạt được, Cao Bằng đặt mục tiêu giai đoạn tới sẽ triển khai 64 dự án, nhiệm vụ trọng tâm về chuyển đổi số. Trong đó có Thuê dịch vụ CNTT: Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh (phân hệ một cửa điện tử); Hệ thống thư điện tử công vụ tỉnh; Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến tỉnh; Thuê máy chủ xác thực, bảo mật của tỉnh Cao Bằng phục vụ kết nối Hệ thống Quản lý văn bản điều hành, Hệ thống giải quyết TTHC của tỉnh với Văn phòng Chính phủ; Bồi dưỡng kỹ năng số, nâng cao nhận thức, tuyên truyền về chuyển đổi số; phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số; Hoạt động truyền thông ngày chuyển đổi số; Triển khai chuyển đổi Ipv6 trên địa bàn tỉnh; Nền tảng phân tích, tích hợp, xử lý dữ liệu tổng hợp tỉnh; Nền tảng điện toán đám mây, thiết lập Trung tâm dữ liệu phục vụ phát triển Chính quyền số, chuyển đổi số tỉnh; Nền tảng công dân số tỉnh; Hệ thống theo dõi, giám sát chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Nghị Quyết số 71/NQ-CP (nội tỉnh) và theo dõi, đánh giá, chấm điểm chỉ số chuyển đổi số tỉnh (PDTI); Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tỉnh (LGSP); Nền tảng hoạt động, thiết lập Trung tâm điều hành thông minh tỉnh (IOC); Hệ thống quản lý thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa chuyển đổi số tại các cửa khẩu; Hệ thống Quản lý hoạt động đầu tư, xây dựng hạ tầng và thuê đất các khu kinh tế cửa khẩu; Nâng cấp Hệ thống CSDL công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh; Triển khai cơ sở dữ liệu ngành giáo dục và Quản lý hồ sơ giáo dục thuộc “Hệ sinh thái giáo dục thông minh tỉnh Cao Bằng”; Thuê dịch vụ về đăng ký, quản lý và tổ chức thi, xét tuyển cho học sinh đầu cấp; Thuê dịch vụ CNTT: Hạ tầng CNTT, phần mềm vận hành cơ sở dữ liệu đất đai tỉnh; Xây dựng hệ thống quản lý và cung cấp thông tin trực tuyến về thời tiết và thiên tai trên địa bàn tỉnh; Chuẩn hoá, tích hợp, làm sạch cơ sở dữ liệu đất đai sau sáp nhập cấp xã (56 xã, phường); Số hóa tài liệu lưu trữ đất đai, khoáng sản và môi trường; Nâng cấp phần mềm cơ sở dữ liệu về giá tỉnh; Xây dựng hệ thống quản lý Cơ sở dữ liệu công chứng, chứng thực tỉnh; Xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh; Triển khai hệ thống thông tin nguồn và thu thập tổng hợp, phân tích, quản lý dữ liệu, đánh giá hiệu quả hoạt động thông tin cơ sở; Triển khai số hóa di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh; Trang thiết bị CNTT, Hệ thống điều hành giám sát tại các cửa khẩu tỉnh (Theo dõi điều hành giám sát Camera các khu cửa khẩu, Hệ thống phí hàng hóa xuất nhập khẩu, Phân tích các chỉ số về lưu lượng hàng hóa, xe ô tô qua cửa khẩu); Số hoá 100% kết quả giải quyết TTHC còn hiệu lực của chính quyền cấp huyện (10 huyện, thành phố cũ) để tái sử dụng thông tin, dữ liệu, tạo thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp...
Có thể khẳng định, thành tựu chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025 đã và đang mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ cho tỉnh Cao Bằng, góp phần nâng cao năng lực quản trị nhà nước, cải thiện chất lượng dịch vụ công, thúc đẩy kinh tế số và nâng cao đời sống nhân dân. Những bước đi ấy không chỉ giúp rút ngắn khoảng cách số giữa vùng biên giới với các địa phương trong cả nước, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của tỉnh trong tiến trình hội nhập số quốc gia.
Dương Liễu