Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng, nâng cao chất lượng dân số
Lượt xem: 716

Thực hiện Kế hoạch số 743/KH-UBND ngày 01/4/2021 của UBND tỉnh Cao Bằng về thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 1435/KH-BCĐ ngày 12/6/2023 của Ban Chỉ đạo công tác Dân số về Kế hoạch hoạt động công tác dân số trên địa bàn tỉnh Cao Bằng năm 2023.

anh tin bai

Hình ảnh hội nghị tập huấn về mức sinh phù hợp cho viên chức phụ trách công tác dân số trên địa bàn tỉnh

Hiện nay, tỉnh Cao Bằng nằm trong nhóm 33 tỉnh có mức sinh cao theo Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ và không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, điều này ảnh hưởng đến chất lượng dân số, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội của địa phương, vì vậy rất cần có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng.

Mức sinh của tỉnh những năm qua diễn biến phức tạp, giai đoạn 2007-2012, tỉnh đạt mức sinh thay thế; tổng tỷ suất sinh (viết tắt là TFR) đạt 2,1 con/phụ nữ. Từ năm 2014, TFR của tỉnh tăng cao trở lại (năm 2014 là 2,53; năm 2019 là 2,43; năm 2020 là 2,42; năm 2022 là 2,4 con/phụ nữ và mức sinh không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh).

Theo số liệu năm 2019 của Tổng cục Dân số, phụ nữ sinh con trong nhóm tuổi 15-19 và 20-24 tuổi của Cao Bằng cao hơn so với toàn quốc (sinh sớm). TFR của phụ nữ nông thôn của tỉnh là 2,45 con/phụ nữ, cao hơn so với phụ nữ nông thôn toàn quốc (2,26 con/phụ nữ). TFR của phụ nữ thành thị của tỉnh 2,15 con/phụ nữ (đạt mức sinh thay thế), tỷ suất sinh của phụ nữ thành thị toàn quốc là 1,83 con/phụ nữ.

Nguyên nhân mức sinh có chiều hướng tăng trở lại đây một phần do nhận thức của người dân về sinh đủ 2 con chưa đầy đủ, hiểu chưa đúng một số nội dung về Pháp lệnh Dân số và chính sách hỗ trợ an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác dân số. Công tác tuyên truyền, giáo dục về sinh đủ 2 con, gia đình hạnh phúc chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao ở một số nhóm đối tượng; chưa khai thác, phát huy được lợi thế của các loại hình truyền thông hiện đại. Đặc biệt là việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện, xã, xóm đã tác động không nhỏ đến việc triển khai công tác chuyên môn về y tế, dân số, giáo dục, truyền thông… Nguồn lực đầu tư hạn chế, chủ yếu là từ ngân sách Trung ương nhưng ngày càng giảm và không có nguồn vốn tài trợ của nước ngoài; nguồn lực địa phương cho công tác dân số chưa đáp ứng yêu cầu.

Tác động của các chính sách an sinh xã hội cũng là khó khăn, thách thức lớn trong công tác truyền thông về dân số - kế hoạch hóa gia đình, về giảm sinh: Tại khoản 7 Điều 5 của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội quy định: “Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 điều này, đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn” thuộc đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng. Đây là chính sách rất nhân văn nhưng với những trường hợp sinh con thứ 3 trở lên lại vi phạm quy định tại Nghị định số 39/2015/NĐ-CP ngày 27/4/2015 của Chính phủ Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.

Những năm qua, tỉnh quan tâm đến việc bổ sung nguồn lực cho công tác dân số, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 53/2021/NQ-HĐND ngày 29/7/2021 Quy định một số chính sách hỗ trợ công tác dân số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2030, tuy nhiên trong quá trình thực hiện gặp khó khăn trong công tác đấu thầu mua sắm, cung cấp sản phẩm phương tiện tránh thai...

Mức sinh cao tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, y tế, giáo dục…, làm tăng khoảng cách phát triển và chất lượng cuộc sống của nhân dân các địa phương vùng mức sinh cao so với vùng mức sinh thấp so với các khu vực khác. Ngược lại, mức sinh thấp kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực trong xây dựng và phát triển đất nước.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng dân số, điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng trên địa bàn tỉnh, cần tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, các cấp, ngành trong xây dựng kế hoạch, chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp với địa bàn các huyện, Thành phố và chỉ đạo tổ chức thực hiện.

anh tin bai

Khẩu hiệu tuyên truyền được căng trên các tuyến đường tại thành phố Cao Bằng

Tập trung công tác truyền thông, vận động với thông điệp truyền thông phù hợp với tỉnh là “dừng lại ở 2 con 4 để nuôi dạy cho tốt”; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh ít con hơn ở những địa phương có mức sinh còn cao và sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp; đa dạng hoá phương thức truyền thông, vận động phù hợp với từng nhóm đối tượng, chủ yếu là các cặp vợ chồng đã sinh 2 con và có ý định sinh thêm con. Tuyên truyền, vận động trực tiếp tại hộ gia đình, cộng đồng thông qua đội ngũ cộng tác viên dân số, nhân viên y tế thôn bản và tuyên truyền viên của các ngành, đoàn thể cơ sở. Tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền thông tại nơi đông dân cư, tập trung nhiều thanh niên, vị thành niên. Nhất trí quan điểm không để tình trạng địa phương có mức sinh cao sinh bù cho địa phương có mức sinh thấp và ngược lại.

Tiếp tục tổ chức chiến dịch truyền thông lồng ghép với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình ở những địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tổ chức cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình thân thiện cho vị thành niên, thanh niên; các hoạt động thúc đẩy tiếp thị xã hội, xã hội hóa cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Tổ chức các hoạt động để phát huy vai trò của những người có ảnh hưởng với công chúng, gia đình và dòng họ như già làng, trưởng bản; truyền thông, vận động không tảo hôn, không kết hôn sớm, không sinh con quá sớm, không sinh quá dày và không sinh nhiều con...

Từng bước đẩy mạnh, quan tâm chú trọng đến các hoạt động nâng cao chất lượng dân số, tổ chức các loại hình cung cấp dịch vụ phù hợp; tư vấn, kiểm tra sức khỏe, phát hiện sớm, phòng, tránh các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con dị tật, mắc các bệnh, tật ảnh hưởng đến việc suy giảm chất lượng nòi giống. Lồng ghép, huy động các nguồn vốn như Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với các nguồn lực của địa phương để triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ đối với công tác dân số. Tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền đia phương, các cấp, các ngành trong xây dựng kế hoạch, chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp với đại bàn huyện, thành phố và chỉ đạo tổ chức thực hiện.

K.C





Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1